



HƯỚNG DẪN KIỂM SOÁT GOUT CẤP TÍNH VÀ TÁI PHÁT CỦA HIỆP HỘI BÁC SĨ NỘI KHOA HOA KỲ (ACP) 2017
Hướng dẫn khẳng định bằng chứng gần đây không đủ các can thiệp vào chế độ ăn uống như giảm lượng thịt đỏ hoặc rượu để cải thiện triệu chứng ở bệnh nhân bị gout. ACP lưu ý rằng các cơn gout cấp được kiểm soát tốt nhất với các corticosteroid, NSAID hoặc colchicine liều thấp [3].
Đối với bệnh nhân không có các chống chỉ định, ACP khuyến cáo dùng các corticosteroid (ví dụ: prednisolone 35mg trong 5 ngày) như liệu pháp đầu tay vì có dữ liệu an toàn và chi phí thấp hơn.
Nếu sử dụng colchicin: dùng liều thấp (1.2mg, sau đó 1 giờ dùng 0.6mg) hiệu quả tương đương như liều cao (1.2mg, sau đó 0.6mg/giờ trong 6 giờ) và ít tác động có hại hơn.
Nếu sử dụng NSAID: không có sự khác biệt giữa các tác nhân, kể cả indomethacin.
Febuxostat 40mg/ngày và allopurinol 300mg/ngày có hiệu quả làm giảm nồng độ urat huyết thanh tương tự nhau.
Dự phòng với colchicine liều thấp hoặc NSAID liều thấp làm giảm tần suất xảy ra các cơn gout cấp ở bệnh nhân khởi đầu liệu pháp làm giảm urat.
ACP cũng lưu ý hiện tại chưa đủ bằng chứng ủng hộ việc theo dõi nồng độ urat huyết thanh ở bệnh nhân bị gout. Các tác giả viết rằng họ không chắc chắn về giá trị khi điều trị theo mục tiêu nồng độ urat huyết thanh so với điều trị theo cường độ giảm thiểu các triệu chứng.
Trong 2 khuyến cáo khác, ACP khuyên các nhà lâm sàng không nên sử dụng liệu pháp làm giảm urat dài hạn đối với hầu hết bệnh nhân sau cơn gout đầu tiên hoặc bệnh nhân có các cơn đau không thường xuyên, bác sĩ nên thảo luậnvới bệnh nhân về lợi ích, tác hại, chi phí và các nguyện vọng cá nhân trước khi khởi đầu liệu pháp làm giảm urat.
HƯỚNG DẪN CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH LOÃNG XƯƠNG SAU MÃN KINH CỦA HIỆP HỘI CÁC NHÀ NỘI TIẾT LÂM SÀNG HOA KỲ (AACE) VÀ TRƯỜNG MÔN NỘI TIẾT HOA KỲ (ACE) 2016
Hướng dẫn khuyến cáo tất cả phụ nữ sau mãn kinh 50 tuổi trở lên cần được đánh giá nguy cơ loãng xương. Việc đánh giá bao gồm tiền sử chi tiết của bệnh nhân, bài kiểm tra thể chất, nhận định nguy cơ gãy xương bằng công cụ FRAX (Fracture Risk Assessment Tool) của WHO và xem xét kiểm tra mật độ khoáng của xương dựa trên nguy cơ gãy xương [4].
Nếu được chẩn đoán loãng xương, khuyến cáo đánh giá thêm nguyên nhân thứ phát gây loãng xương, có gãy xương cột sống không và xét nghiệm khác như các chỉ dấu của quá trình chu chuyển xương.
Nên đo nồng độ 25-hydroxyvitamin D trong huyết thanh và duy trì ở mức ≥ 30ng/ml (khoảng thích hợp: 30-50 ng/ml) ở bệnh nhân loãng xương.
Khuyến cáo teriparatid giới hạn dùng trong 2 năm (theo nhãn trên sản phẩm).
Bisphosphonat gây tích tụ và thời gian ở trong xương kéo dài, xem xét ngưng thuốc một thời gian sau 5 năm điều trị với bisphosphonate ở bênh nhân có nguy cơ trung bình và 6-10 năm điều trị ở bệnh nhân có nguy cơ cao.
Khi dùng acid zoledronic IV, xem xét ngưng thuốc một thời gian sau 3 liều hàng năm ở bệnh nhân có nguy cơ thấp và sau 6 liều hàng năm ở bệnh nhân có nguy cơ cao.
Không khuyến cáo ngưng thuốc đối với denosumab.
Teriparatid hoặc raloxifen có thể dùng trong thời gian ngưng bisphosphonate ở bệnh nhân nguy cơ cao.
Giáo dục bệnh nhân duy trì lượng canxi từ chế độ ăn ở mức 1200mg/ngày và nên cung cấp 1000-2000 IU vitamin D3 từ chế phẩm bổ sung nếu cần để duy trì nồng độ vitamin D huyết thanh khuyến cáo.
Các khuyến cáo dành cho tư vấn bệnh nhân bao gồm hạn chế dùng rượu, tránh hoặc ngưng hút thuốc, duy trì lối sống vận động (ví dụ: các bài tập chịu sức nặng cơ thể, cân bằng, sức chịu đựng) và áp dụng các phương pháp làm giảm nguy cơ té ngã (ví dụ: vật lý trị liệu, các dụng cụ bảo vệ hông, thay đổi các yếu tố môi trường), đặc biệt ở người già yếu.
Liệu pháp dùng thuốc được khuyến cáo cho bệnh nhân có T-score ≤ -2.5 ở cột sống, cổ xương đùi, toàn bộ hông hoặc 33% xương quay. Ngoài ra, liệu pháp được khuyến cáo mức độ cao với bệnh nhân có T-score từ -2.5 đến -1.0 nếu tỷ lệ 10 năm có nguy cơ gãy xương do loãng xương nặng theo FRAX là ≥ 20% hoặc tỷ lệ 10 năm có nguy cơ gãy xương hông là 3%.
Khuyến cáo điều trị để làm giảm nguy cơ gãy xương hông, gãy xương không phải xương đốt sống, gãy cột sống bao gồm các thuốc alendronate, risedronat, acid zoledronic và denosumab. Đối với bệnh nhân không thể dùng liệu pháp đường uống hoặc có nguy cơ gãy xương cao, có thể dùng teriparatid, denosumab hoặc acid zoledronic. Thời gian điều trị:
Vì chưa chứng minh lợi ích trên nguy cơ gãy xương khi thêm hai hoặc nhiều thuốc điều trị loãng xương, không khuyến cáo liệu pháp kết hợp trong dự phòng và điều trị loãng xương sau mãn kinh.
Duyệt của tổ thông tin thuốc